Hàng năm, một nhà khoa học có thể tạo ra hàng loạt thiết bị máy móc từ tiền ngân sách. Thế nhưng, phần lớn sáng chế từ các đề tài của nhà khoa học đều bị thực tiễn khước từ. vì sao?
Trên 80% đề tài khoa học bị xếp xó!
Cách đây vài năm, một nhóm nhà khoa học của Khoa Cơ khí Đại học Bách khoa TP Hồ Chí Minh đã chế tác thành công máy sinh sản bánh tráng. Đề tài này được cấp kinh phí từ ngân sách nhà nước. Chiếc máy photo màu này có giá 470 triệu đồng, thấp hơn nhiều so với giá máy nhập nội, 110.000 USD. Tuy nhiên, khi mua về dùng, một đơn vị chế biến thực phẩm ở TP Hồ Chí Minh mới ngã ngửa vì máy chỉ chạy thể nghiệm một thời gian ngắn đã bất ổn, bánh đạt thì ít mà hư thì nhiều, máy đành bỏ phế.
Mới đây, Sở KH-CN TP đã nghiệm thu đề tài chế tạo máy thu hoạch mía không róc lá do một công ty thực hành trong thời kì khoảng hai năm với kinh phí của sở cấp, khoảng 1 tỷ đồng. Đề tài được hội đồng nghiệm thu đánh giá thành công, giá bán 200 triệu đồng, chưa kể máy kéo trị giá 250 triệu đồng. Tuy nhiên, chiếc máy này chỉ hoạt động được ở địa hình bằng phẳng liên tiếp, còn với khoảng 100.000 ha mía trồng theo dạng liếp phổ thông ở đồng bằng sông Cửu Long thì bất lực. Không chỉ vậy theo một thành viên trong hội đồng là một nhà khoa học làm việc lâu năm trong ngành thuê máy photocopy cũ, chiếc máy này làm việc còn chập chờn, hay hỏng vặt… Chính nên chi mà Sở KH-CN TP lại đấu cấp 120 triệu đồng để nhóm tác giả trên nghiên cứu chế tạo thêm một cái máy róc lá mía chuyên biệt.
Trong khi đó, cách đây hai năm, Trung Quốc đã dùng đại trà (và sẵn sàng bán cho Việt Nam) máy photocopy e studio 655 hoàn chỉnh, vừa chặt cây, ngọn vừa róc sạch luôn lá nhưng giá chỉ khoảng 50 triệu đồng và rất cơ động ở nhiều loại địa hình.
Trên mặt bằng chung, dù chưa có một thống kê chính thức nào nhưng theo nhận định của một số nhà khoa học đầu ngành, riêng lĩnh vực sáng chế kỹ thuật thì số có thể đưa vào vận dụng thực tế chỉ từ 10%-20% tổng số sáng chế, tỷ lệ này càng thấp ứng với đề tài cấp càng cao, đó là chưa kể các nghiên cứu khoa học xã hội, thường rất chung chung và rất khó vận dụng thực tại.
Nguyên nhân: cách biệt thực tế và cơ chế bất cập
Lý giải vấn đề phần lớn các sáng chế của nhà khoa học bị “dội” thực tế, tiến sĩ Đinh Sơn Hùng, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế TP Hồ Chí Minh, dấn các đề tài khoa học còn có khoảng cách cố định với thực tế. Khi thực hành đề tài, nhà khoa học khảo sát thực tế chưa kỹ, thiếu sâu sát.
Quá trình thí nghiệm lại diễn ra trong điều kiện lý tưởng, bỏ qua nhiều tình tiết đời thường nên sản phẩm “chênh vênh” với “đời thực” là chuyện dễ hiểu.
Cách đây mấy năm, một số nhà khoa học của Trường ĐH Bách khoa TP Hồ Chí Minh có đề tài chế tác một hệ thống xử lý rác thải.
Đề tài được nghiệm thu thành công và triển khai lắp đặt ở huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. Tuy nhiên, hệ thống máy trị giá hơn 1,5 tỷ đồng này chỉ hoạt động được vài ngày rồi im bặt, dần trở thành đống ve chai.
Lý do chính là loại rác có ở địa phương không có trong chủng loại rác thể nghiệm của các nhà nghiên cứu nên thiết bị không xử lý được. Những đề tài dạng trên sẽ không có nhịp nghiệm thu nếu hội đồng xét duyệt làm việc xác thực hơn.
Theo tấn sĩ Đinh Sơn Hùng, về vấn đề kiểm soát đề tài, hiện thời tiêu chí chọn thành viên hội đồng và tiêu chí đánh giá đề tài vẫn còn chưa chặt chẽ, chưa rõ ràng, thẩm định còn nặng cảm tính…
Còn GS-TSKH Nguyễn Thúc Loan (Viện Nghiên cứu phát triển năng lượng), nguyên Trưởng ban Điều khiển học – Ủy ban khoa học – kỹ thuật nhà nước (nay là Bộ KH-CN), cho rằng nguyên do lớn nhất là cơ chế.
Kinh phí dành cho nghiên cứu đã thấp lại bị “chia năm, xẻ bảy”, “rơi rụng” dần ở các “ải”, ở những khoản không ghi trên văn bản nên số tiền đích thực phục vụ công tác nghiên cứu không còn bao lăm, chất lượng nghiên cứu nên chi không như mong muốn.
Đề tài, dự án thường được thực hành theo chỉ đạo và chỉ tiêu mà không phải là sự “đặt hàng” của những bức thiết trước mắt cũng như lâu dài của đời sống.
Vì không có sự tương trợ, thiếu “nhạc trưởng” nên kết quả nghiên cứu không thương nghiệp hóa được sản phẩm ra lò thiếu bàn tay quán xuyến của những nhà quản lý kinh tế, dùng cần lao không đúng chỗ (kỹ sư làm thay công nhân)…
Chế độ đãi ngộ chưa tương thích nên bây chừ số tiến sĩ tham gia nghiên cứu khoa học chưa tới 1/3, còn hơn 2/3 là trở thành những “thợ dạy” không hơn, không kém.
Tham gia bình luận